Contents
Chương trình giáo dục VNEN là một chương trình giáo dục mới được khởi xướng bởi Clara Victoria Colbert (1987), nhằm đổi mới phương thức dạy học từ việc chuyển hướng lấy học sinh làm trung tâm trong quá trình dạy và học, giúp học sinh phát triển toàn diện cả về lý thuyết và kỹ năng thực tiễn.
Vậy thực chất chương trình giáo dục mới VNEN mang lại những hiệu quả tích cực gì, có những mặt hạn chế ra sao? Mời bạn đọc cùng tham khảo qua bài viết này nhé!
Xem thêm: Giới thiệu Sàn thương mại điện tử Shopee
1. Thế nào là chương trình giáo dục VNEN ?
-Chương trình giáo dục VNEN là mô hình trường học mới khởi nguồn từ Colombia từ những năm 1995-2000 để dạy học trong những lớp ghép ở vùng miền núi khó khăn, theo nguyên tắc lấy học sinh làm trung tâm.

-Dự án GPE-VNEN, Global Partnership for Education – VNEN viết tắt của từ Việt Nam Escuela Nueva) là một mô hình trường học mới được áp dụng tại Việt Nam vừa kế thừa những mặt tích cực của mô hình trường học truyền thống, vừa có sự đổi mới căn bản về mục tiêu đào tạo, nội dung chương trình, tài liệu học tập, phương pháp dạy – học, cách đánh giá, cách tổ chức quản lý lớp học, cơ sở vật chất phục vụ cho dạy – học…
2. Cấu trúc bài học của chương trình giáo dục VNEN.
Với phương châm kế thừa những mặt tích cực của mô hình trường học truyền thống, bám sát vào chương trình giáo khoa của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo nên cấu trúc của VNEN sẽ được cô đọng như sau:
Mô hình VNEN giữ nguyên nội dung, chuẩn kiến thức, kĩ năng theo chương trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Các môn học được tích hợp và giúp hỗ trợ nhau trong việc giáo dục học sinh, các môn học được chuyển thành hoạt động giáo dục đã làm giảm bớt gánh nặng trong học tập cho các em.

Bài học mô hình VNEN được cấu trúc theo một đơn vị kiến thức hoàn chỉnh, nhằm giải quyết trọn vẹn, liên tục một vấn đề: hình thành, củng cố, vận dụng, ứng dụng kiến thức vào thực tế.
Bắt đầu của mỗi hoạt động đều có một hình vẽ (logo) cùng với những “lệnh” thực hiện để học sinh dễ dàng nhận ra yêu cầu và các hình thức tổ chức thực hiện hoạt động học tập (học cá nhân, theo cặp, nhóm nhỏ hoặc toàn lớp). Thiết kế của tài liệu rất tiện cho giáo viên và học sinh trong hoạt động dạy và học. Đa số kênh hình và kênh chữ rõ ràng giúp học sinh dễ hiểu, giúp học sinh tiếp cận bài một cách dễ dàng.
3. Những điểm mạnh của chương trình giáo dục VNEN.
Với nguyên tắc lấy học sinh làm trọng tâm trong quá trình dạy và học nên đối với môi trường lớp học mới này học sinh sẽ làm chủ trong mọi hoạt động học, học sinh được lựa chọn tình huống thực tiễn nhằm vận dụng kiến thức – kỹ năng đã học được trong bài học; tìm tòi mở rộng thêm theo sở thích, sở trường, hứng thú của mình.
Giáo viên chỉ đóng vai trò là người hướng dẫn và giám sát học sinh. Làm sao để tạo được một mối liên hệ thực bền vững giữa nhà trường và phụ huynh học sinh. Cụ thể những điểm mạnh của chương trình giáo dục VNEN như sau:
Hoạt động học của học sinh được coi là trung tâm của quá trình dạy học.
Giáo viên với vai trò là người hướng dẫn học, quan tâm đến sự khác biệt trong việc tiếp thu kiến thức của học sinh.

Việc đánh giá học sinh thường xuyên theo quá trình học tập nhằm kiểm tra và hướng dẫn phương pháp học tập có hiệu quả – phương pháp học tập là một yêu cầu quan trọng.
Phải xây dựng môi trường học tập cởi mở, thân thiện, hiệu quả.
Sách giáo khoa gọi là tài liệu hướng dẫn học được thiết kế cho học sinh hoạt động, tự học, học nhóm; sách biên soạn cho 3 trong 1, nghĩa là sách dùng chung cho cả giáo viên, học sinh và cha mẹ học sinh.
Hoạt động học tập của học sinh không đóng khung trong bốn bức tường lớp học, mà phải giúp học sinh “vận dụng” và “tìm tòi, mở rộng” ra bên ngoài. Đây là các hoạt động giao cho học sinh thực hiện ở ngoài lớp học, giáo viên không tổ chức dạy học hoàn toàn trên lớp.
4. Những điểm hạn chế của chương trình giáo dục VNEN.
Chương trình giáo dục VNEN được bắt đầu triển khai từ năm học 2011-2012, nhưng qua thời gian được áp dụng tại các môi trường giáo dục ở Việt Nam còn bộc lộ không ít những hạn chế sau:
Số lượng học sinh trong lớp quá đông không thể áp dụng vì không có không gian. Số lượng thích hợp từ 25 đến 30 em, nhiều trường hiện nay có lớp trên 40 em.
Phụ huynh sẽ mang thêm gánh nặng về kinh phí, mua sách, tham gia xây dựng các công cụ hỗ trợ cho hội đồng tự quản, đồ dùng dạy và học… ở những vùng nghèo phụ huynh khó đáp ứng được.
Học sinh tiểu học còn nhỏ khó tự quản được cách học nhóm (nhận xét, đánh giá, báo cáo…). Học sinh lớp 2, 3 khó có thể điều khiển lớp học như một giáo viên. Những công việc này ngay đến học sinh THCS cũng khó thực hiện tại sao lại ép học sinh tiểu học thực hiện.
Để học được theo mô hình VNEN thì học sinh phải chuẩn bị bài ở nhà. Vậy ngoài việc học 7 tiết ở trường thì về nhà mỗi ngày học sinh cũng dành khoảng 2-3 giờ để chuẩn bị bài. Điều này trái với quy định không giao bài về nhà cho học sinh và ảnh hưởng đến việc sinh hoạt khác.

Khi tổ chức ngồi học theo nhóm các em quay mặt vào nhau. Nhưng khi cô giáo giảng bài hay khi các bạn trình bày trên bảng thì một số em quay đầu nhìn lên ở một tư thế khó khăn. Có thể gây bệnh về cột sống cho học sinh.
Khi dạy và học theo VNEN các bước đi quá rập khuôn, máy móc, từ việc giáo viên ghi bảng, trình bày, tổ chức học sinh, còn học sinh chỉ hoạt động những thao tác rất giống nhau đây cũng là điều đáng lo ngại.
Khi dạy học mô hình VNEN giáo viên giao việc học tập cho các nhóm, hoạt động giữa các nhóm không hoàn toàn đồng bộ, sẽ có những học sinh yếu kém, trong khi đó giáo viên lại mất nhiều thời gian kiểm tra trong nhóm, không có đủ điều kiện để theo dõi hết các hoạt động của các em, như thế sẽ khó hướng dẫn thêm cho những học sinh yếu. Chỉ có một hai học sinh trong lớp là tích cực hoạt động và hiểu được bài. Còn các em thụ động, nhút nhát thì khó nắm bắt được bài.
Khi dạy học mô hình VNEN học sinh tự do chạy đến góc này, chạy sang góc kia, trao đổi một cách tự do, thoải mái trong giờ học không phải ngồi ngay ngắn, im lặng răm rắp hướng về phía giáo viên. Nhưng điều này sẽ tạo một không khí lớp ồn ào, khó kiểm soát, ảnh hưởng đến các nhóm khác và giáo viên khó nắm bắt được các em có làm việc đúng với nhiệm vụ mình ra hay không?
Để dạy học theo mô hình VNEN thì cần phải có Bộ tài liệu. Học sinh không học theo bộ sách giáo khoa hiện hành mà theo bộ sách được biên soạn lại. Bộ tài liệu này được coi là “3 trong 1” khi cả học sinh, giáo viên và phụ huynh đều có thể dùng làm tài liệu học tập và giảng dạy. Nếu không có Bộ tài liệu này thì nhà trường không thể dạy học theo mô hình trường học kiểu mới VNEN.
Xem thêm: Undergraduate là gì?
5. Phương pháp đánh giá học sinh của chương trình giáo dục VNEN.
Chương trình giáo dục VNEN tập trung đánh giá theo bộ khung Chuẩn kiến thức kĩ năng trong chương trình cấp Tiểu học và các năng lực cần thiết được hình thành qua mô hình trường học mới. Cụ thể như sau:
Đánh giá thường xuyên được tiến hành theo tiến trình bài học và các hoạt động giáo dục hàng ngày bằng hình thức nhận xét.
Đối tượng tham gia đánh giá kết quả học tập của mỗi học sinh gồm: học sinh tự đánh giá, bạn đánh giá, phụ huynh đánh giá, giáo viên đánh giá.
Thực hiện chương trình VNEN mở ra cơ hội để sự phối hợp nhà trường với các đoàn thể, giữa giáo viên với phụ huynh và cộng đồng xã hội. Phụ huynh trực tiếp tham gia giáo dục con em mình, trực tiếp tham gia đánh giá con em mình thông qua việc thực hành kĩ năng của học sinh.
Trả lời