Contents
Bài thơ Thương Vợ của Tú Xương nằm trong chương trình Ngữ văn lớp 11, là một trong những bài thơ hay, cảm động nhất. Qua đó sẽ giúp em thấu hiểu hơn sự tảo tần, đảm đang dành trọn tấm lòng thương yêu chồng con của người vợ Tú Xương qua ngòi bút tự trào của tác giả.
Xem thêm: Phân tích nhân vật Huấn Cao
1.Sơ lược đôi nét về tác giả Trần Tế Xương và tác phẩm Thương vợ .
1.1. Tác giả Trần Tế Xương .
– Trần Tế Xương (1870 – 1907) và thường được mọi người gọi là Tú Xương. Ông quê ở làng Vị Xuyên, huyện Mĩ Lộc, tỉnh Nam Định.
– Tú Xương ra đi khi chỉ mới 37 tuổi , nhưng đã để lại rất nhiều tác phẩm văn học đặc sắc ( trên 100 bài ). Các tác phẩm của ông chủ yếu là thơ trào phúng và trữ tình viết về mảng hiện thực đời sống , bày tỏ niềm thiết tha yêu đất nước, cuộc đời và con người.
1.2 . Tác phẩm Thương vợ .
– Bài thơ Thương vợ của Tú xương nỗi lòng bộc bạch sự thương vợ, trân trọng sự hi sinh thầm lặng và cao cả của tác giả đối với vợ mình, nằm trong chuỗi bài thơ viết về Bà Tú của ông .
-“ Thương vợ ”được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, bài thơ đã thay Tú Xương bày tỏ tình yêu thương và sự trân trọng đối với sự hi sinh cao cả của vợ mình.
2.Phân tích bài thơ Thương Vợ của Trần Tế Xương.
Khi nói đến thể thơ trào phúng , không thể quên nhắc tới Trần Tế Xương (Tú Xương ) bởi giọng thơ đả kích, phê phán sắc sảo, cay độc, mạnh mẽ hiếm có trong thơ Ông . Các nhà thơ lớn đã ca ngợi cái “chất riêng ” trong thơ Tú Xương là : “Tú Xương cười như mảnh vỡ thủy tinh”(Chế Lan Viên ) , hay chất hiện thực trong thơ ông chỉ là “chân trái”, còn “chân phải” của ông là chất trữ tình(Nguyễn Tuân ). Một lần nữa những lời khen về sự chân thực , trữ tình riêng ấy đã được minh chứng thật rõ nét qua tác phẩm Thương Vợ của chính tác giả . Bài thơ bày tỏ nỗi lòng cảm thông sâu sắc , thương yêu vợ của Tú Xương đối với người vợ của mình.
“Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không”
Mở đầu bài thơ tác giả đã bộc bạch là một người chồng thương yêu vợ hết mực khi nói đến chỗ làm việc của vợ , ông viết :
Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Dường như thấu hiều nỗi vất vả cơ cực trong công việc làm ăn buôn bán của người hiền thê của mình , tác giả đã tái hiện lên không gian làm việc của vợ qua từ ngữ “mom sông” – một địa điểm đã phần nào gợi lên sự chênh vênh , gian nan và vô cùng nguy hiểm đối với một người phụ nữ chân yếu tay mềm. Thời gian làm việc cũng thật vô tận , dài đằng đẵng “ quanh năm “’ – có nghĩa là chuỗi thời gian kéo dài liên tục , giãi nắng dầm mưa biết bao cơ cực , tủi hờn mà không lúc nào được ngơi nghỉ của Bà Tú. Có lẽ cũng vì Bà Tú phải “ nuôi đủ năm con với một chồng “” nên mới phải vất vả lam lũ như thế . Ở đây Tú Xương đã nói lên nỗi vất vả , nhọc nhằn của vợ khi một mình bà Tú phải nuôi tới bảy miệng ăn . Không ngẫu nhiên mà nhà thơ đặt hai vế song song : năm con- một chông “’ ngang hang với nhau như vậy , bởi không phải ai cũng biết suốt cuộc đời Tú Xương chỉ có ăn bám vợ và đi thi khoa cử nhưng chưa bao giờ đạt kết quả như mong đợi để đỡ đần vợ con và nuôi năm con mới bằng nuôi một chồng .
Hai câu đề đã phần nào khiến chúng ta hình dung được hình ảnh người phụ nữ nhọc nhằn ,lam lũ trong xã hội xưa , một thời : “trọng nam khinh nữ “’mọi công việc trách nhiệm đều đè nặng lên đôi vai người phụ nữ mà không được kêu ca hay than vãn một lời.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Đọc hai câu thực của bài thơ ,một lần nữa ta lại thấm thía hơn những gian khó, nhọc nhằn của người Bà Tú . Tú Xương đã khéo léo gợi lên một lần nữa trong lòng người độc giả những từ ngữ, hình ảnh vô cùng quen thuộc nhưng lại hàm ý sâu sắc đó là: “lặn lội”, “thân cò”, “khi quãng vắng”, “eo sèo”, “buổi đò đông”. Thường thấy trong văn học dân gian hay những bài hát ru xưa của bà , của mẹ thường hiện lên hình ảnh con cò , một thân cò vất vả , cô đơn và lầm lũi :
Cái cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non.
Trong thơ Tú Xương ,hình ảnh con cò lại được xuất hiện và được ví như thân phận người vợ của Ông – một người phụ nữ luôn tần tảo sớm hôm , hi sinh thầm lặng , bất chấp khó khăn nơi đầu song ngọn gió để kiếm miếng cơm manh áo lo cho gia đình.
Bà Tú không chỉ một thân một mình “lặn lội ” “quãng vắng” mà còn “eo sèo” “ buổi đò đông”, có lẽ là công việc buôn bán của bà đôi lúc sảy rat tranh chấp , cãi vã nên một mình bà tú phải Eo Sèo chăng ? Hai câu thơ gợi lên sự gợi hình , gợi cảm rất đặc sắc ,mang đậm dấu ấn thơ Tú Xương. Đây được xem là hai câu thơ hay nhất trong toàn bài , tái hiện chân thực hình ảnh người Phụ nữ xưa trong thơ Ông , nôi lòng Thương cảm sâu sắc đối với vị Hiền Thê của mình.
Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Tú Xương là một nhà trí thức phong kiến thuộc loại Nhà Nho nên tư tưởng Nho giáo thấm nhuần trong thơ ông . Tú Xương viết về sự gắn kết cuộc đời giữa ông và vợ là do Duyên phận . Nhưng không ngẫu nhiên mà nhà thơ viết rằng : một duyên mà là hai nợ , duyên thì ít mà nợ gấp đôi . Phải chăng gặp nhau kết thành tri kỉ đã là duyên trời định , còn nợ ở đây chính là do sự vô tâm hững hờ của người tri kỉ ? Cũng chính vì điều đó đã khiến cho sự vất vả , hi sinh của một thân phận người phụ nữ được nâng lên thành định mệnh của cả một kiếp con người. Vì đã là duyên là nợ thì làm sao thay đổi được , phải dung cả một đời người để trả mà thôi .“Âu đành phận” nghĩa cam chịu là chấp nhận cũng như một tiếng thở dài của nhà thơ đối với số phận tủi khổ của bà xã.
Hai câu thơ kết bài cũng như thay lời muối nói của Bà Tú ,đó dường như là tiếng lòng, là nỗi niềm của một người phụ nữ luôn cam chịu , nhẫn nhục muốn gửi gắm đếm vị hôn phu của mình:
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không.
Tú Xương đã thay nỗi lòng của vợ mình để nói lên tiếng lòng trách móc đối với cha mẹ và sự vô tâm, hững hờ của bản thân đối với vợ. Không còn quá xa lạ khi số phận của những người phụ nữ xưa thật bấp bênh như : “Thân em như tấm lụa đào, phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”, ở cái thời mà người phụ nữ được xem là một món hang rẻ rung được rao bán khắp nơi. Ở cái xã hội mà luôn luôn phải e dè , không được quý trọng về thân phận , phải làm thân trâu ngựa .
Thấu hiểu nỗi thống khổ đó , Tú Xương đã giúp độc giả có cái nhìn rõ hơn về thân phận người phụ nữ mà ngay cả đến bậc cha mẹ cũng đối xử tệ bạc và nhẫn tâm với con dâu. Thêm vào đó là một người chồng đã không san sẻ được gánh nặng cơm áo gạo tiền cho vợ , còn hững hờ vô tâm khiến người phụ nữ ấy buồn càng them tủi.
Khép lại bài thơ “ Thương Vợ ” chúng ta thấy được rằng đây là một bài thơ hay và đặc sắc, bài thơ là sự kết tinh tài năng văn chương vô cùng tài hoa của ngòi bút Tú Xương . “ Thuơng vợ” với sự kết hợp hài hòa giữa ngôn ngữ dân gian với ngôn ngữ bác học, hình ảnh thơ quen thuộc gần gũi với độc giả đã toát lên được tình yêu Thương vợ sâu sắc của Ông đối với người phụ nữ của đời mình. Tú Xương – một nhà thơ vô cùng tài hoa của nèn thơ ca Việt nam , dù đã ra đi hơn 100 năm nay nhưng sự nghiệp văn chương của Ông chắc chắn sẽ còn mãi mới thời gian .
Trả lời